Dân số là định mệnh

Nguyễn Xuân Nghĩa
2019.10.15
Dân số là định mệnh Ảnh minh họa: Tuổi trẻ Việt Nam rất giỏi về toán, đọc và các bộ môn khoa học nhưng chỉ có 28% là được vào tới bậc đại học.
AFP

Một số thống kê tại Việt Nam cho thấy nhiều nguy cơ đáng ngại ngay trước mắt và trong lâu dài. Ngay trước mắt, Việt Nam thiếu nhân lực có trình độ chuyên môn cao để tận dụng cơ hội từ trận thương chiến giữa Hoa Kỳ với Trung Quốc. Về lâu dài thì nạn thất quân bình giới tính là trai thừa gái thiếu cũng ảnh hưởng đến dân số Việt Nam trong tương lai. Diễn đàn Kinh tế xin tìm hiểu chuyện này.

Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do cùng Nguyên Lam xin kính chào chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa. Thưa ông, tuần qua thông tấn xã Reuters của Anh quốc và nhiều bài báo của quốc tế cho biết Việt Nam thiếu nhân lực có trình độ chuyên môn cao để tận dụng cơ hội của trận thương chiến giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc khi giới đầu tư tìm vào thị trường xứ này. Cùng lúc đó, Giám đốc Chương trình của tổ chức Lao Động Quốc Tế thuộc Liên Hiệp Quốc cho biết trong số thất nghiệp tại Việt Nam thì có đến 48% là giới thanh niên. Còn Tổng cục Dân số Việt Nam cũng báo động về nạn chênh lệch giới tính nam nữ tại cả nông thôn lẫn thành thị khiến Việt Nam sẽ thiếu phụ nữ và điều ấy sẽ chi phối dân số của Việt Nam trong lâu dài. Ông nghĩ sao về những tin đó?

Như nhiều xã hội Đông Á tiên tiến, Việt Nam cũng sẽ bị nạn lão hóa dân số trong tương lai, với tỷ trọng người già cao hơn sẽ ảnh hưởng đến ngân sách hưu bổng và y tế. Dù tương lai đó chưa tới, Việt Nam cũng nên tự chuẩn bị, như đã thiếu chuẩn bị về giáo dục và đào tạo.
-Nguyễn Xuân Nghĩa

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Người ta thường nói dân số hay nhân khẩu là định mệnh của quốc gia vì ảnh hưởng đến kinh tế và xã hội trong trường kỳ, trong lâu dài. Việt Nam bị chiến tranh quá lâu, và khi chiến tranh thực tế chấm dứt từ năm 1989, đúng 30 năm trước, thì bản năng sinh tồn của con người khiến dân Việt Nam đẻ nhiều và có cơ cấu lao động rất trẻ, tính tới năm ngoái thì gần 60% lực lượng lao động là những người từ 15 tuổi trở lên, và mỗi năm lại có một triệu người đến tuổi tham gia vào thị trường lao động. Đó là về lượng tưởng như ghê gớm. Nhưng về phẩm thì ta thấy ra nhiều vấn đề nghiêm trọng của lực lượng lao động ấy.

- Thứ nhất, lực lượng lao động không được đào tạo cho đúng nhu cầu của kinh tế và xã hội, nên chỉ có 12% của nguồn nhân lực lên tới gần 60 triệu người là có tay nghề cao. Thứ hai, yếu tố văn hóa tương tự Trung Quốc là “trọng nam khinh nữ” trong chế độ kế hoạch hóa gia đình cũng dẫn tới hiệu tượng trai thừa gái thiếu. Chênh lệch về sinh học này sẽ ảnh hưởng tới dân số của Việt Nam trong tương lai. Thứ ba, như nhiều xã hội Đông Á tiên tiến, Việt Nam cũng sẽ bị nạn lão hóa dân số trong tương lai, với tỷ trọng người già cao hơn sẽ ảnh hưởng đến ngân sách hưu bổng và y tế. Dù tương lai đó chưa tới, Việt Nam cũng nên tự chuẩn bị, như đã thiếu chuẩn bị về giáo dục và đào tạo.

Dân số đông và trẻ

Nguyên Lam: Thưa ông, chúng ta sẽ chuẩn bị đi từng bước vào các vấn đề ông vửa nêu ra. Thứ nhất là dân số đông và trẻ khi chiến tranh thực sự kết thúc vào năm 1989 khi Việt Nam rút quân khỏi Kampuchia….

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Chúng ta nhớ lại bài Quê Nghèo do Phạm Duy sáng tác tại Quảng Bình vào năm 1948, có câu “nửa đêm thanh vắng không một bóng trai” vì thanh niên trai tráng nhập ngũ trong chiến tranh, thật sự kể từ 1945. Cho tới năm 1989, Việt Nam trải qua gần 45 năm chiến tranh và chỉ trở về trạng thái bình thường từ 30 năm qua khi dân mình ào ạt lấy vợ đẻ con do một bản năng sinh tồn.

Ảnh minh họa: trẻ em Việt Nam
Ảnh minh họa: trẻ em Việt Nam
AFP

- Giai đoạn ấy cũng trùng hợp với thời kỳ đổi mới của Việt Nam, nhưng người ta chỉ thấy lượng mà chưa có phẩm. Thành thử Việt Nam có dân sổ trẻ, lực lượng lao động đông mà 80% lại không được đào tạo cho đúng với nhu cầu của xã hội và thị trường. Từ một quốc gia mà đảng và nhà nước chi phối quá nhiều sinh hoạt của người dân, đấy là một thất bại về kế hoạch và về giáo dục khiến Việt Nam khó cạnh tranh với các nước lân bang trong khu vực.

- Bài viết của Reuters mới chỉ nhấn mạnh tới ách tắc vì thiếu trình độ lao động cao, nhưng người ta còn nên thấy ra một sự thật đau lòng khác là tuổi trẻ Việt Nam rất giỏi về toán, đọc và các bộ môn khoa học nhưng chỉ có 28% là được vào tới bậc đại học, so với 48% của Malaysia hay 43% của Thái Lan.

Nguyên Lam: Thưa ông, vì sao Việt Nam lại gặp nghịch lý kỳ lạ này khi đã hết chiến tranh?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Trong bài khải tên là “Cần Bộc Chi Ngôn”, là những lời nôm na thô kệch do Ngô Thì Nhậm trình lên Chúa Trịnh Sâm vào thời Trịnh Mạt, cuối Thế kỷ 18, ông nói về “giáo, chính, pháp”, là giáo dục, chính trị và pháp lý, rồi kết luận rằng “Thầy giảng không tinh, thưởng phạt không công bằng, và bổng lộc không đủ, duyên cớ đều là do tình trạng thiếu thốn và sự thiếu thốn. Cho nên, dù có cấp bách lo việc này, nhưng nếu không nắm được mấu chốt của nó, thì dù “trí” có thể biết được, “thế” vẫn không thể làm được”. Ngẫm lại thì nhà tư tưởng Ngô Thì Nhậm chỉ ra yếu tố then chốt là kinh tế trong cơ chế chính trị.

- Ngày nay, người ngoại quốc cũng nói thế, rằng “một số nghiên cứu cho thấy các chương trình giáo dục ở Việt Nam đã lạc hậu, giáo viên bị trả lương thấp, còn sinh viên khi tốt nghiệp lại thiếu kỹ năng cần thiết để kiếm việc làm trong khu vực tư nhân”.

Nhân khẩu học

Nguyên Lam: Bước sang vấn đề thứ hai về dân số hay nhân khẩu học thì Tổng cục Dân số và Kế hoạch hóa gia đình thuộc Bộ Y Tế, cho biết theo cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 1999, tỉ số giới tính khi sinh của Việt Nam là 107 bé trai/100 bé gái, thì 20 năm sau, tỉ số này là 115 bé trai/100 bé gái trong khi mức chuẩn sinh học bình thường là 105 bé trai/100 bé gái. Thưa ông, phải chăng Việt Nam cũng bị nạn mất cân bằng giới tính nam nữ như Trung Quốc?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Việt Nam mất thế cân bằng nam nữ nghiêm trọng nhất Đông Á và chỉ hơn Trung Quốc thôi. Yếu tố văn hóa ngàn năm ấy là chuyện nên chú ý. Nhưng Việt Nam là nơi đã thiếu phụ nữ mà lại còn xuất khẩu cô dâu qua xứ khác nữa! Hậu quả của hiện tượng đáng lo này là những gì?

Các nhà nhân khẩu học nhìn vào số sinh đẻ bình quân của phụ nữ trong xã hội, nếu ở mức hai con thì đáng lo vì mấp mé nạn xã hội già lão, dưới mức đó thì đáng nguy vì sẽ là hiện tượng lão hóa. Theo dự báo tại Việt Nam thì đến năm 2050, Việt Nam có thể thiếu từ hai triệu ba tới bốn triệu ba phụ nữ.
-Nguyễn Xuân Nghĩa

- Ta nhớ rằng nền móng của quốc gia khởi sự từ gia đình và cấu trúc gia đình thành hình từ hôn nhân giữa nam và nữ. Đặc tính xã hội của Việt Nam sau mấy chục năm chiến tranh triền miền là phụ nữ đảm đang và chu toàn cho gia đình hơn nhiều xã hội Đông Á khác. Nhìn ra đường, ta thấy phụ nữ xốc vác ngược xuôi và về nhà dạy con, còn thanh niên thì trác tác uống bia, rung đùi hút thuốc!

- Nhưng nếu dân số phụ nữ giảm thì cấu trúc gia đình tan vỡ, hết còn ai lo cho con trẻ từ trong nhà ra tới nhà trường, xã hội bị băng hoại như ta đang thấy. Cộng với nạn xuất cảng cô dâu vừa nói ở trên thì quy luật cung cầu còn dẫn nạn buôn gái bán dâm. Giới hữu trách ở trong nước có nhìn ra vấn đề, nhưng muốn giải quyết thì phải mất nhiều thập niên, là vài chục năm. Việt Nam là nơi hiếm hoi, thậm chí duy nhất, là phụ nữ lãnh đạo cuộc đấu tranh cho độc lập từ năm Canh Tý 1980 năm trước, mà ngày nay qua thời bình phụ nữ vẫn bị coi là công dân bậc hai! Ngoài yếu tố văn hóa thì ta nên nhìn vào cơ chế pháp lý để chấm dứt tình trạng phi lý ấy!

Lão hóa dân số

Nguyên Lam: Ở trên, ông có nói tới hiện tượng lão hóa dân số mà ông cho rằng Việt Nam cũng có thể sẽ gặp, Nguyên Lam xin đề nghị ông giải thích cho thính giả của chúng ta cái hiện tượng đó.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Người ta nghiệm thấy một trào lưu chung của nhân loại là phụ nữ có một chức năng xin gọi là truyền thống, là sinh con đẻ cái. Trung bình thì họ có chừng 30 năm cho việc thiêng liêng ấy ấy, tôi xin lấy con số đại khái cho dễ nhớ là từ 12 tới 42 tuổi. Nhưng đà tiến hóa chung của các xã hội con người là phụ nữ được giải phóng nên có cuộc sống riêng tư và có thêm thời gian học hỏi. Vì vậy, họ lập gia đình trễ hơn và hết muốn sinh đẻ nhiều như xưa vì nhu cầu kinh tế và nhân lực cũng dần dần đổi khác. Hậu quả phố biến là xã hội càng tiến hóa thì càng ít con. Trái với nỗi lo của loài người khi bắt đầu công nghiệp hóa mấy thế kỷ trước là thiên hạ sẽ bị nạn nhân mãn, khi dân số gia tăng theo cấp số nhân mà sản lượng kinh tế chỉ tăng theo cấp số cộng, các nước công nghiệp hóa ngày nay đều thấy dân số giảm và cần di dân để bổ xung cho lực lượng lao động. Đó là một vấn đề khá phổ biến.

- Vấn đê kia là tiến bộ của khoa học cũng kéo dài tuổi thọ của con người sau tuổi lao động, thí dụ cho dễ nhớ là 65 tuổi. Khi các xã hội đã tiến hóa thì số sinh đẻ ít hơn nên tỷ trọng của lớp người ở tuổi lao động so với dân số cũng giảm và tỷ trọng của giới cao niên thì tăng. Người ta gọi đó là hiện tượng “lão hóa dân số”.

- Các nhà dân số học hay nhân khẩu học thì tính ra là trung bình các phụ nữ phải đẻ chừng 2,1 đứa con thì xã hội hay quốc gia mới có đủ dân số bù đắp cho người đã chết. Dưới mức này thì quốc gia bị nạn lão hóa và người lao động phải nuôi nhiều người cao niên đã về hưu. Nhật Bản và Đức đã gặp bài toán đó, Trung Quốc cũng sẽ gặp vì chính sách mỗi hộ một con mà họ áp dụng từ 1978 tới 2015.

Chênh lệch giới tính

Nguyên Lam: Thưa ông, thế còn Việt Nam thì sao?

Ảnh minh họa: một người già Việt Nam mưu sinh trên đường phố.
Ảnh minh họa: một người già Việt Nam mưu sinh trên đường phố.
AFP

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Việt Nam cũng sẽ đi tới đó, mà có thể còn sớm hơn chính là vì nạn trai thừa gái thiếu chúng ta vừa nói. Các nhà nhân khẩu học nhìn vào số sinh đẻ bình quân của phụ nữ trong xã hội, nếu ở mức hai con thì đáng lo vì mấp mé nạn xã hội già lão, dưới mức đó thì đáng nguy vì sẽ là hiện tượng lão hóa. Theo dự báo tại Việt Nam thì đến năm 2050, Việt Nam có thể thiếu từ hai triệu ba tới bốn triệu ba phụ nữ. Nam giới sinh sau năm 2000 thì lo ế vợ chứ xã hội nên lo rằng mình thiếu… máy đẻ. Dân số sẽ suy giảm và cơ cấu cũng thay đổi từ đó. Đừng nên nghĩ rằng năm 2050 vẫn còn xa vì năm 1989 người ta cũng tưởng 2019 vẫn còn xa cho tới khi té ngửa vì thiếu nhân công có trình độ!

Nguyên Lam: Như vậy, xin ông trình bày cho kết luận về các vấn đề quá sâu xa rắc rối này.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Người ta cứ nói lãnh đạo là tiên liệu. Từ năm 1975, lãnh đạo Việt Nam đã nắm quyền tuyệt đối mà thiếu tiên liệu, từ kế hoạch tới giáo dục và đào tạo, trong khi xã hội băng hoại dần. Từ năm 2014, khi Trung Quốc hết là “công xưởng biến chế toàn cầu” thì Việt Nam cũng đã có cơ hội thay thế chứ chẳng đợi tới trận Thương chiến Mỹ-Hoa ngày nay mà chẳng tiên liệu

- Vấn đề then chốt là quyền của người dân bị thu hẹp, quyền tư hữu bị xâm phạm và dù có thấy trước vấn đề của bản thân và gia đình, người dân cũng chẳng có quyền giải quyết. Kết cuộc thì tuổi trẻ bị nhồi sọ về chủ nghĩa Mác-Lênin trong một nền giáo dục lạc hậu, khi trưởng thành thì vẫn chưa thành người và rất khó thành công như những người cùng tuổi ở các nước lân bang. Nhìn con trẻ Việt Nam lội sông hay bước qua cầu khỉ để đi vào trường tiểu học thì chúng ta nên lo cho tương lai xứ này khi phải cạnh tranh với thế giới đang tiến quá nhanh.

Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do cùng Nguyên Lam xin cảm tạ kinh tế gia Nguyễn-Xuân Nghĩa về bài phân tích tuần này.

Nhận xét

Bạn có thể đưa ý kiến của mình vào khung phía dưới. Ý kiến của Bạn sẽ được xem xét trước khi đưa lên trang web, phù hợp với Nguyên tắc sử dụng của RFA. Ý kiến của Bạn sẽ không xuất hiện ngay lập tức. RFA không chịu trách nhiệm về nội dung các ý kiến. Hãy vui lòng tôn trọng các quan điểm khác biệt cũng như căn cứ vào các dữ kiện của vấn đề.